World Bank đề xuất chính sách giúp Việt Nam giải quyết các rủi ro khí hậu, tăng trưởng kinh tế

Nguyễn Thị Quỳnh Mai
Dựa trên các mô hình dự báo, World Bank cho rằng, biến đổi khí hậu có thể gây thiệt hại kinh tế 12–14,5% GDP mỗi năm vào năm 2050 và khiến một triệu người vào cảnh nghèo cùng cực vào năm 2030. Thông tin trên được bà Carolyn Turk -Giám đốc Ngân hàng thế giới World Bank (WB) Việt Nam, cho biết trong buổi Lễ Công bố Báo cáo Quốc gia Khí hậu và Phát triển Quốc gia Việt Nam (CCDR) diễn ra vào ngày 14/7,tại Hà Nội.
e5f5294c9c42601c3953-5799-1595406492-1658465628.jpg
Tác động của biến đổi khí hậu có thể khiến thêm từ 400.000 đến 1 triệu người rơi vào cảnh nghèo cùng cực vào năm 2030.

Với hơn 3.200 km bờ biển, nhiều thành phố có địa hình trũng thấp và các vùng đồng bằng ven sông, Việt Nam là một trong những quốc gia dễ bị tổn thương nhất trên thế giới trước biến đổi khí hậu.

Theo WB, nguy cơ đối với các khu đô thị và khu công nghiệp, đặc biệt là trong và xung quanh trung tâm kinh tế TP.HCM, đặt nhiều bộ phận lớn của nền kinh tế vào rủi ro. Đồng bằng sông Cửu Long là nơi sinh sống của 18 triệu người, đã và đang bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu; hơn 70% diện tích đất của một số tỉnh thành có thể bị ngập trong vòng 80 năm nữa.

Các tác động của biến đổi khí hậu, chủ yếu là nhiệt độ và mực nước biển dâng cao hơn và biến động lớn hơn đã và đang làm gián đoạn hoạt động kinh tế và suy yếu tăng trưởng.

Các tính toán ban đầu cho thấy, Việt Nam mất 10 tỉ USD vào năm 2020, tương đương 3,2% tổng sản phẩm nội địa (GDP) do tác động của biến đổi khí hậu. Nếu không có các biện pháp thích ứng và giảm thiểu phù hợp, ước tính biến đổi khí hậu sẽ khiến Việt Nam mất khoảng 12-14,5% GDP mỗi năm vào năm 2050.

WB cho rằng, khi nền kinh tế đang phát triển nhanh của Việt Nam tiến dần đến vị thế là nước có thu nhập cao, Việt Nam cũng cần phải giảm cường độ carbon. Tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng của Việt Nam đã tăng lượng phát thải khí nhà kính bình quân đầu người từ 0,79 tấn carbon dioxide (CO2) tương đương vào năm 2000 lên 3,81 tấn CO2 vào năm 2018, và lượng khí thải đang tăng với tốc độ nhanh nhất trên thế giới.

Ô nhiễm liên quan đến khí thải này ảnh hưởng đến sức khỏe và giảm năng suất; tình trạng cạn kiệt tài nguyên và các tác động của biến đổi khí hậu đã làm tổn hại đến thương mại và đầu tư.

Để giúp Việt Nam đạt được các mục tiêu phát triển, đồng thời, thực hiện các cam kết về khí hậu, nhóm nghiên cứu Báo cáo quốc gia về khí hậu và phát triển quốc gia cho Việt Nam của WB đề xuất nhiều giải pháp trên hai góc độ quan trọng. Đó là nâng cao khả năng chống chịu với các tác động của khí hậu và theo đuổi chiến lược tăng trưởng hướng nền kinh tế giảm dần các nguồn năng lượng thâm dụng carbon.

Hai lộ trình này sẽ giúp Việt Nam đạt được các mục tiêu về khí hậu đồng thời tăng GDP bình quân đầu người hơn 5%/năm – tỷ lệ trung bình cần thiết để trở thành quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045. Đồng thời, để bảo vệ các hộ gia đình dễ bị tổn thương nhất trước giá năng lượng tăng cao và gián đoạn việc làm trong quá trình chuyển dịch sang nền kinh tế carbon thấp, Việt Nam sẽ cần đẩy mạnh các chương trình khuyến khích khu vực tư nhân áp dụng những công nghệ sạch hơn và tạo thuận lợi cho dịch chuyển lao động.

Cụ thể, World Bank đã đề xuất năm ưu tiên chính sách để Việt Nam giải quyết các rủi ro khí hậu, đồng thời duy trì tăng trưởng kinh tế.

Thứ nhất, một chương trình cấp vùng có điều phối cho khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Nội dung chính tập trung vào ngăn chặn lún và xâm nhập mặn thông qua hạn chế khai thác cát và nước ngầm, thay đổi phương thức canh tác, tăng dòng chảy và bổ cập tầng chứa nước, phục hồi rừng ngập mặn.

Thứ hai, một chương trình đầu tư khả năng chống chịu ven biển tích hợp cho các trung tâm đô thị chính và cơ sở hạ tầng kết nối. Các khu vực ven biển miền Trung thường xuyên xảy ra các hiện tượng thời tiết cực đoan đã cho thấy rõ nhu cầu nâng cấp đường sá và cơ sở vật chất ngành điện theo tiêu chuẩn thiết kế chống chịu với khí hậu.

Thứ ba, một chương trình giảm thiểu ô nhiễm không khí ở Hà Nội nhằm đạt được mục tiêu giữa kỳ của WHO vào năm 2030 và nâng cao năng suất lao động.

Thứ tư, tăng tốc quá trình chuyển dịch sang năng lượng tái tạo bằng cách cải thiện khung pháp lý để khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân.

Thứ năm, áp dụng các phương thức bảo vệ những đối tượng dễ bị tổn thương nhất bởi biến đổi khí hậu có xu hướng ảnh hưởng nhiều hơn đến các hộ gia đình nghèo ở các khu vực dễ bị ảnh hưởng hoặc những hộ gia đình chưa được chuẩn bị để ứng phó với hậu quả của biến đổi khí hậu.

Phương Linh