Diễn đàn đã thu hút đại diện Tổng cục Thủy sản, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản 3, Viện Hải dương học Nha Trang, Hội Nghề cá Việt Nam,... tham dự. Ngoài ra, còn có lãnh Trung tâm khuyến nông, các chuyên gia trong lĩnh vực thủy sản và 140 nông dân 5 tỉnh gồm: Bình Định, Ninh Thuận, Bình Thuận, Phú Yên và Khánh Hòa tham gia.
Phát biểu khai mạc diễn đàn, ông Lê Quốc Thanh – Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia cho biết, Việt Nam là quốc gia ven biển, có lịch sử phát triển lâu dài gắn liền với biển, với bờ biển kéo dài trên 3.260 km và trên 1 triệu km2 vùng đặc quyền kinh tế biển, hơn 4.000 hòn đảo lớn nhỏ, nhiều eo vịnh đã tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển nghề nuôi biển. Chính vì vậy, ngư dân cần tư duy hình thành sản xuất nông nghiệp, nhìn nông nghiệp với tư duy kinh tế, tư duy tạo ra giá trị gia tăng kinh tế.
Theo lãnh đạo Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, việc đưa công nghệ mới, đưa giải pháp mới thay thế cho phương pháp sản xuất theo truyền thống là rất cần thiết, bởi nuôi trồng thủy sản gặp nhiều rủi ro nhất là mùa mưa bão. Mô hình nuôi bằng lồng HDPE cần được các cấp tuyên truyền, nhân rộng đến các ngư dân khắp cả nước để áp dụng.
Hội nghị đã nghe các đại biểu trình bày 13 tham luận về các chủ đề về hiện trạng và định hướng, giải pháp nghề nuôi cá ở Việt Nam nói chung và tỉnh Khánh Hòa, Bình Định, Phú Yên, Ninh Thuận, Bình Thuận nói riêng; kết quả một số mô hình nuôi cá lồng bè trên biển và giải pháp phát triển trong thời gian tới…
Theo Tổng cục Thủy sản, Việt Nam có nhiều vùng vịnh kín, bãi triều ven biển và một phần ở các hải đảo, vùng biển xa bờ. Tổng diện tích tiềm năng nuôi biển khoảng 500.000 ha; trong đó, diện tích nuôi vùng bãi triều ven biển 153.300 ha; diện tích nuôi vùng vũng vịnh, eo ngách và ven đảo là 79.790 ha và nuôi vùng biển xa bờ 100.000. Năm 2021 diện tích nuôi cá biển khoảng 9.000 ha cho sản lượng khoảng 57.837 tấn, chủ yếu các loài thủy sản như: cá song, cá giò, cá hồng, cá vược, cá tráp, cá chim vây vàng, cá ngừ, cá măng biển...
Nghề nuôi biển mang nhiều lợi ích cho ngư dân, tuy nhiên nghề này ở nước ta vẫn còn mang tính tự phát, thiếu quy hoạch chi tiết, điều kiện cơ sở hạ tầng còn nhiều hạn chế, trình độ kỹ khoa học - thuật sản xuất của người dân vẫn chưa đáp ứng yêu cầu. Do đó, để nghề nuôi biển đạt yêu cầu trong thời gian tới, Tổng cục Thủy sản đề xuất cần có cơ chế, chính sách thu hút đầu tư, hỗ trợ phát triển nuôi trồng thủy sản trên biển; đầu tư xây dựng hạ tầng thiết yếu vào các vùng nuôi tập trung, vùng nuôi giống nuôi biển tiềm năng; tổ chức triển khai thực hiện Luật Thủy sản 2017 và các quy định hiện hành và tổ chức lại sản xuất áp dụng khoa học công nghệ, kỹ thuật mới từ khâu con giống cho đến đầu ra của sản phẩm.
TS. Huỳnh Minh Sang, Viện Hải dương học chia sẻ, nuôi trồng thủy sản đã đóng một vai trò quan trọng trong việc cung cấp protein chất lượng cao và là lĩnh vực phát triển nhanh nhất trong sản xuất thực phẩm trong hơn 20 năm. Việc mở rộng nuôi trồng thủy sản đòi hỏi những công nghệ mới và mang tính đột phá. Một số các công nghệ mới nổi và đột phá có tiềm năng cách mạng hóa ngành nuôi trồng thủy sản. Những công nghệ này bao gồm công nghệ chọn giống dựa trên kiểu gen, robot, thông tin/công nghệ kỹ thuật số, nuôi trồng ngoài khơi, RAS, thay thế bột cá và các loại dầu với protein thay thế và dầu cá, vắc xin uống.
“Mặc dù ngành nuôi trồng thủy sản là một trong những ngành chậm được áp dụng công nghệ mới, những tiến bộ gần đây của công nghệ có thể mang lại cơ hội cho nuôi trồng thủy sản. Tuy nhiên, có khoảng cách lớn giữa tính khả dụng và các công nghệ đột phá, các ứng dụng thực tế của chúng trong nuôi trồng thủy sản ngành công nghiệp”, TS. Huỳnh Minh Sang nói.
Bàn về giải pháp gỡ khó cho nông dân, ông Hoàng Văn Lợi, Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Dịch vụ và Công nghệ nuôi trồng thủy sản cho biết, đến nay, cả nước có 91.180 lồng bè, trong đó có 68.080 lồng bè nuôi thủy sản nước mặn lợ và 23.100 lồng bè nuôi thủy sản nước ngọt. Nhưng, đa phần là loại lồng truyền thống làm bằng vật liệu tre, nứa, mét, gỗ và sắt thép.
Giải pháp là phải đảm bảo an toàn lồng nuôi hiện nay. Hiện có lồng nuôi bằng nhựa HDPE hình tròn, hình vuông do công ty sản xuất có độ bền rất cao, lên đến 30 - 40 năm đối với khung lồng và 10 năm với hệ thống túi lưới. Điều này, giúp người nuôi có thể điều chỉnh lồng chìm khi gặp mưa bão, giảm thiểu rủi ro do thiên ta