Nguy cơ lây nhiễm của virus Marburg như thế nào?

Lã Thị Thúy Hằng
PGS, TS Đỗ Duy Cường, Giám đốc Trung tâm Bệnh nhiệt đới, Bệnh viện Bạch Mai cho biết, virus Marburg thường lây qua đường tiếp xúc là chủ yếu. Đây là một bệnh gây dịch lẻ tẻ, tuy nguy hiểm nhưng hiện tại chưa đủ yếu tố để lan ra toàn cầu cũng như đến Việt Nam.
a12-1676885636.jpg
Hình ảnh dưới kính hiển vi điện tử của virus Marburg. (Ảnh: BSIP/UIG/Getty Images)

Theo PGS, TS Đỗ Duy Cường, virus Marburg cùng nhóm với virus Ebola và có cấu trúc ARN. Marburg là một virus thông qua động vật trung gian để gây bệnh, cụ thể là loài dơi ăn quả tại châu Phi Rousettus aegyptiacus.

Tên của virus được lấy từ phòng thì nghiệm Marburg nước Đức nơi phát hiện ra loại virus này vào năm 1967. Virus Marburg gây bệnh lẻ tẻ tại các nước cận Sahara như Uganda, Guinea Xích đạo, Congo, Angola… và không gây thành dịch lớn với tỷ lệ tử vong cao có thể từ 30-90%.

Về đường lây, bác sĩ Cường cho hay, con người hít phải chất tiết hoặc nước tiểu của loài dơi ăn quả sẽ bị nhiễm bệnh, sau đó lây từ người sang người.

Virus Marburg lây từ người sang người qua tiếp xúc gần, dịch cơ thể, đường máu, nước tiểu, nước bọt, mồ hôi, các chất tiết nôn, sữa, dịch ối, tinh dịch…Virus Marburg cũng có thể lây trong phòng thí nghiệm hay nhân viên y tế chăm sóc người bệnh cũng có khả năng nhiễm bệnh.

“Theo tôi, virus Marburg không dễ lây, thường lây qua đường tiếp xúc là chủ yếu. Tuy nhiên, virus này có thể lây qua đường hô hấp, cụ thể là giọt bắn khi tiếp xúc rất gần”, bác sĩ Cường cho hay.

Theo chuyên gia này, bệnh do virus Marburg gây ra rất khó chẩn đoán lâm sàng, biểu hiện lâm sàng rất dễ nhầm với các bệnh lưu hành tại từng vùng.

Bệnh do virus Marburg gây ra có thời gian ủ bệnh kéo dài từ 2-21 ngày, bệnh nhân có thể xuất hiện các biểu hiện như: Sốt đột ngột, ớn lạnh, đau đầu, đau cơ, đau người.

Ở ngày thứ 5, người bệnh có thể xuất hiện phát ban, cảm giác rát trên thân mình. Bệnh nhân còn kèm theo buồn nôn, đau ngực, đau bụng, đau họng, tiêu chảy, vàng mắt, có biểu hiện xuất huyết, mê sảng đi vào sốc và dẫn đến suy gan, suy đa tạng có thể gây tử vong.

Để chẩn đoán virus Marburg cần sử dụng xét nghiệm trong phòng thí nghiệm như Elisa và PCR. Đối với các bệnh nhân tử vong có thể lấy máu hoặc các mẫu sinh thiết tại các tổ chức của cơ thể để làm nhuộm hóa mô miễn dịch hoặc nuôi cấy để phát hiện ra virus.

Chuyên gia truyền nhiễm này nhấn mạnh, hiện nay bệnh chưa có vaccine hay thuốc kháng virus đặc hiệu để điều trị.

Do đó, mọi người cần phòng bệnh bằng các phương pháp không đặc hiệu như: Hạn chế đến các vùng có nguy cơ nhiễm bệnh; Tránh tiếp xúc với dịch tiết của các loài dơi ăn quả; Không tiếp xúc với người nghi ngờ mắc bệnh;

Nếu tiếp xúc với người bệnh hoặc nghi ngờ mắc bệnh thì cần mang bảo hộ lao động (găng tay, khẩu trang, dung dịch sát trùng, khử khuẩn…). Phòng lây nhiễm từ người bệnh sang nhân viên y tế hoặc nhân viên trong phòng thí nghiệm.

"Người mắc bệnh do virus Maruburg sẽ phải cách ly nghiêm ngặt và phương pháp điều trị chủ yếu là điều trị hỗ trợ như bù nước điện giải, chống xuất huyết, nếu có biểu hiện suy đa tạng thì cần thở oxy, hồi sức… Tuy nhiên với tỷ lệ tử vong khá cao, thường những người mắc bệnh đều có tiên lượng nặng", bác sĩ Cường cho hay.

Hiện Việt Nam chưa xuất hiện ca bệnh do virus Marburg, PGS Cường khuyến cáo mọi người cần thận trọng nhưng không cần quá lo ngại.

Điều đáng lo ngại nhất là những bệnh lây truyền qua đường hô hấp, tính chất lây truyền nhanh. Nhưng đối với virus Marburg, chỉ có thể lây truyền khi tiếp xúc gần và gây bệnh theo vùng.

"Có thể nói virus Marburg là một loại bệnh mang tính chất vùng miền thường xuất hiện ở châu Phi. Đây là một bệnh gây dịch lẻ tẻ, tuy nguy hiểm nhưng hiện tại chưa đủ yếu tố để lan ra toàn cầu cũng như đến Việt Nam. Người dân cần nâng cao cảnh giác, có những biện pháp để bảo vệ bản thân thì sẽ hạn chế được nguy cơ mắc bệnh", PGS Cường cho hay.