Hiển Vinh - Làng gối đầu trên sóng

Tạp Chí Nhân Đạo
(NĐ&ĐS) – Làng Hiển Vinh (thuộc xã Quang Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa) hôm nay đã thay da đổi thịt, với những đường làng rộng rãi, được thảm bê tông, thảm nhựa, với những ngôi nhà thật khang trang, với nhiều dáng vẻ độc đáo,… Bức tranh nông thôn ở Hiển Vinh đã và đang thay đổi, cho ta thấy một làng “nông thôn mới kiểu mẫu”.

Can trường vượt những can qua

Dòng sông Lèn ôm ấp ruộng đồng và hai dãy núi Tự, núi Ngẳn. Làng Hiển Vinh – một làng “nông thôn mới kiểu mẫu”, thuộc xã Quang Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa với thế đất như gối đầu sóng nước, núi non. Từ núi Ngẳn, ngó bên kia sông Lèn, phía bắc là Hà Toại (huyện Hà Trung), hướng đông là Nga Lĩnh (huyện  Nga Sơn) và nghe được tiếng gà ba huyện.

hien-vinh
Làng Hiển Vinh – một làng “nông thôn mới kiểu mẫu”

Tên Hiển Vinh, thay cho cái tên làng Vưng nôm na, có lẽ là từ cuối thế kỷ 14, thời cuối Trần, khi vợ chồng Phương Hoa, Cảnh Yên - các nhân vật chính trong truyện Nôm khuyết danh Phương Hoa trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam - vinh quy bái tổ. Cha Cảnh Yên, quan Thượng thư Trương  Đài, an trí quê nhà - làng Vưng (tức làng Hiển Vinh, xã Quang Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa bây giờ) dạy học nhưng bị viên quan trong triều Tào Trung Úy giả chiếu thư, vu tội phản quốc, giết cả họ để phá việc kết duyên giữa Cảnh Yên và Phương Hoa - con gái nguyên quan Ngự sử Trần Điện (bạn của Trương Đài, cũng về ẩn ở Lôi Dương, Thiệu Hóa, Thanh Hóa ngày nay) hòng chiếm Phương Hoa làm vợ. Cảnh Yên, cùng mẹ và em trai may trốn thoát, nhưng lại vướng oan sai, phải vào ngục chờ xử chết. Nhằm cứu chồng sắp cưới, nàng Phương Hoa dùi mài kinh sử, giả làm Cảnh Yên, thi đỗ đại khoa. Rồi họ Trương được minh oan, Cảnh Yên qua kiểm tra kiến thức được triều đình công nhận học vị tiến sỹ (Theo “Phương Hoa dẫn truyện” của tác giả Bùi Xuân Dục, người Hiển Vinh, do NXB Thanh Hóa ấn hành năm 2010).

Câu chuyện cảm động, dẫn dụ cho biết bao truyện thơ dân gian về Phương Hoa sau này, là minh chứng cho phẩm cách trung trinh, kiên nghị vượt lên mọi can qua của người Hiển Vinh.

 “ …Những năm bom Mỹ thả”, đó là một sự thực tréo nghoe mà Mỹ gây nên ở ngôi  làng Hiển Vinh vốn xa thị thành, xa các cơ sở quân sự, công nghiệp, lại càng xa lắc và chả gây thù hằn gì với nước Mỹ cả. Riêng trận bom lúc 3 giờ sáng ngày 4/1/1967, xóm Đá đã bị sập gần hết nhà, 5 người chết, nhiều người bị thương. Ông Thập, xóm Đông, đang lúc vệ sinh, bị mảnh bom lia, ngoài cỗ quan tài, dăm ba hôm sau, mộ ông lại phải đào gá thêm cái nồi đất, đựng những phần thi thể được tìm thấy thêm sau đó. Cuối năm 1972, nơi bãi Ngẳn, làng lại thêm đám tang chung cho gần chục thủy thủ trên chiếc sà lan neo bến sông quê, bị trúng bom. Ký  ức trong ông Thắng, ông Bồng, ông Khuy, ông Đôn…, nay người còn kẻ mất, nhưng rất đậm sâu về cái ngày 16/9/1965 ấy. Mặc những làn đạn xối xả từ máy bay trực thăng Mỹ, họ tay gậy, tay súng săm soi khắp khu vực rừng bờ sông, núi Ngẳn, đã bắt được tên phi công Mỹ, Uynson, trốn trong ruộng ngô Cồn Vầu. Trên cái chõng tre  nhà ông Kế, hồi ấy, Uynson đã ăn món cơm khoai, cà muối, thứ lương thực của vùng quê mà chính ông ta giội bom phá tan nát này. Bom Mỹ rải khắp cánh bãi dâu ven sông Lèn, ruộng Trao Trao, cống Nổ, Chân Tự. Ban đêm, tên lửa Mỹ giội từ hạm đội ngoài biển, nã khắp cánh Đồng Quan, Bãi Ná… Người làng tranh thủ đi cày lúc sáng sớm và đi cấy ban đêm để né bom. Nhà góp cây tre, nhà ít rạ, nhà ông Yển, ông Sũng hiến vườn rộng, người người góp công dựng  lán, đắp lũy, xây hệ thống hầm chữ A, đào hào thông ra ngoài cánh đồng làm lớp học cho trẻ nhỏ. Cứ thế, mùa nào thức ấy, làng vẫn cung ứng đầy đủ những tấn thóc khoai, lợn, gà phục vụ chiến trường, vẫn đều đặn nhịp sống sinh hoạt, lao động, học tập thời chiến. Hàng trăm nam thanh, nữ tú làng Hiển Vinh kế tiếp nhau nhập ngũ đánh Mỹ. Và sau thống nhất đất nước, lại căng mình trong gian khó lúc chiến tranh biên giới Tây Nam, biên giới phía Bắc.

Trong các cuộc chiến, làng Hiển Vinh đóng góp nhiều máu xương và hiện có 29 liệt sỹ, 34 thương bệnh binh, 2 Bà mẹ VN anh hùng. Hết giặc, nhưng đâu hết lũ lụt, bão tố. Những trận lũ kinh hoàng, các năm 1978, 1986 và 1996, ruộng đồng ngập nước, thân đê quằn quại, gây mất mùa. Tuy được Nhà nước cứu trợ, nhưng nhiều người phải tha phương kiếm sống. Nghèo, thiếu vốn nên từ phân bón, nước tưới, dụng cụ  làm đất ... đụng đâu thiếu đó. Có vụ năng suất lúa chỉ 80 kg/sào. Cộng với tâm lý “tối ngày đầy công”..., thì làm giàu sao đây? May sao Khoán 100, rồi Khoán 10, cơ chế thị trường theo định hướng XHCN, theo Đảng dẫn lối, làng Hiển  Vinh, lại vượt lên,  đua với thiên tai, đua với thời gian.

hien-vinh-1
Một góc làng Hiển Vinh hôm nay

Làng kiểu mẫu hôm nay

Với 408 hộ, 1.570 nhân khẩu, trên mảnh đất rộng 190 ha, gồm 4 đội sản xuất (đội 7, 8, 9, 10), diện tích canh tác chỉ 100 ha, được chính quyền và hợp tác xã quan tâm đầu tư, người làng Hiển Vinh mạnh bạo chuyển loại cây trồng. Và làm mới, cứng hóa hệ thống mương, máng, lắp đặt thêm máy bơm để bảo đảm khâu thủy lợi, chống hạn, né lụt trên các khu vực đồng sâu ven sông, ruộng cao chân  núi. Các đội sản xuất triển khai quy trình điều hành nước, giống, thời vụ một cách khoa học đến từng hộ. Nhiều hộ đầu tư máy cày, bừa, máy gặt giúp công việc nhà nông ngày thêm suôn sẻ. Chỉ tay về phía cánh đồng ớt xanh trước nhà, trải rộng đến tận đường nhựa, ông Mai Đức Hạnh - Bí thư Chi bộ làng Hiển Vinh, một chi bộ trong sạch, vững mạnh nhiều năm, cho biết: “Ớt được thu hái nhiều lứa, đạt gần 10 tấn/ ha, giá bán có khi lên tới 90.000 đ/kg, lúc rẻ cũng 10.000 đ/kg. 20 ha đất 1 lúa, một màu khu Bái Trước, Bái Sau và khu đất bãi ven sông bây giờ chủ yếu thâm canh ớt, lạc, khoai tây, ngô ngọt, phục vụ xuất khẩu, thay vì các loại khoai lang và ngô thường trồng trước đây.

Lúc bước chân tới đầu làng, đồng Cồn Bạc, vùng đất ngập nước, lại quánh vì là đất sét, tôi thấy cái lán nhỏ cạnh bên vườn cây trái tỏa bóng mát  giữa hè tháng 7. Đâu còn bãi cỏ lác, cỏ năn, lẫn những hố bom. Đây trở thành cơ ngơi nuôi tôm, cá kết hợp chăn nuôi lợn, gà của các chủ trang trại: Bạo, Oánh (đội 7), Lanh (đội 8). Nơi cánh Đồng Giữa, ông chủ Thức (đội 8) cải tạo 1 ha đất chua phèn, sình lầy, thành những đìa, ao vuông vức, có hệ thống dẫn nước quy củ để nuôi tôm và sản xuất giống ốc nhồi. Ông bà Thức nghèo, bố mẹ anh chỉ học hết cấp 1,vcấp 2. Nhưng  anh thì tốt nghiệp đại học. Trở về làng, lận lưng kinh nghiệm mấy năm bươn chải ở trong Nam. Giống ốc nhồi do Thức làm ra đến đâu tiêu thụ hết đấy. Khách hàng, ở huyện, tỉnh và cả mãi Ninh Bình, Hải Phòng. Mỗi năm, Thức có thu nhập gần 600 triệu đồng. Còn Tĩnh (đội 8) sinh ra trong thời chiến và chịu khổ trong suốt những năm bao cấp, luôn ôm mộng làm giàu. Nay, đàn trâu bò của gia đình anh hàng chục con, lại thêm lợn, gà, nên mà dù nuôi con cái tật nguyền, mỗi năm gia đình anh vẫn dành ra gần 100 triệu đồng. Trên sông Lèn, trên các con ngòi, con mương dẫn nước, dân làng tận dụng nuôi, thả thủy sản. Cả làng đã có 7 trang trại, gia trại như vậy, không những góp phần cải tạo đất xấu mà đã làm khởi sắc diện mạo kinh tế.

Phúc, người Đội 7, một chàng trai cao lớn, kỹ sư nông nghiệp, từng công tác tại Hà Nội, giờ là giám đốc công ty dịch vụ nông nghiệp tại làng, kể thêm cho tôi: Lúa của làng bây giờ cũng là các giống chất lượng cao như Thái Xuyên, VT 44. 75 ha trồng lúa 2 vụ, với năng suất bình quân từ 7,5 tấn đến 8 tấn/ha, dư thóc ăn, dành cho chăn nuôi và cung ứng ra thị trường.

Dẫu nghề nông tăng trưởng 17%/năm thì vẫn chưa thể nói chuyện khấm khá. Nghề xây truyền thống của làng - với những núi đá và cả cái tên một xóm là Đá, đã cho bàn tay thợ xây Hiển Vinh thêm tài hoa. Tài hoa ấy được phát huy trong cơ chế thị trường. Những tổ xây dựng ông Luyện, ông Kỳ, ông Tuyến v.v... của Hiển Vinh có mặt khắp nước, từ Thủ đô Hà Nội, đến tận Bình Dương. Ngay tại làng, ai muốn xây nhà đẹp cũng phải đăng ký trước hàng vài năm. Cũng gạch, đá, cũng xi, cát ấy, và cũng đồng tiền công như nhau, nhưng với bàn tay người thợ Hiển Vinh thì ngôi nhà mang vẻ thanh thoát và sang trọng hơn hẳn. Ngay trước sân bóng của làng, ngôi nhà mái Thái rất đẹp của vợ chồng chị Hương, nổi bật. Chị chăm chỉ với mấy sào trồng lúa, lạc và ớt, cộng với nghề thợ xây của anh Khương đã nuôi 3 con ăn học. Đội 9, có gia đình bà Huyền, sớm xa bố, chồng bà - ông Bốn, sớm mồ côi mẹ, thuộc đối tượng khổ nhất nhì làng, phải bỏ dở học hành. Nhưng hòa theo khí thế đổi mới, với sự hoạt bát, vừa làm nông vừa làm dịch vụ đã có nhà đẹp, tiện nghi sinh hoạt hiện đại, có vốn liếng đầu tư cho con kinh doanh vận tải. Cơ cấu kinh tế làng đã thoát nếp thuần nông bao đời, bởi đội ngũ 300 thợ xây, gần năm chục hộ kinh doanh hàng tiêu dùng, vận tải, dịch vụ nông nghiệp, hàng chục lao động thu gom phế liệu, gần 100 lao động công nghiệp may... Tính ra, thu nhập bình quân của làng đã đạt trên 60 triệu đồng/người /năm, gấp gần 5 lần so với cách đây chục năm. 2 hộ nghèo do bệnh tật đều được chính quyền và bà con trong làng hỗ trợ thường xuyên về điều kiện sinh hoạt cũng như động viên tinh thần. Làng có trên ba chục người đi lao động bên Nhật, Hàn, Đài Loan. Con em làng đi xa ăn nên làm ra, cũng tạo nguồn lực cho kinh  tế phát triển. Họ đã góp hàng tỷ đồng vào xây dựng 2 cổng làng - ở phía Đông và Tây làng, xây Nhà Văn  hóa, sân bóng đá khang trang v.v…

Con đê làng có từ thời Lý, nay được thảm bê tông để gánh được cả xe tải trọng lớn chở vật tư, hàng hóa lại qua. Ao Đông, ao xóm Quang Thịnh, chạy giữa làng, được kè xây bậc, bệ, trồng cây tán rộng, giống kiểu hồ sinh thái nơi thị thành, vừa làm đẹp, vừa làm nơi tiêu lũ, trữ nước, nuôi cá, tôm. Đi trên những đường, những ngõ làng rộng rãi, được dân làng hiến đất mở rộng và góp tiền, công sức thảm bê tông, thảm nhựa, tôi dừng bước trước nhà Bí thư Hạnh. Ngôi nhà thật khang trang, nhưng so với hàng chục ngôi nhà cao tầng, nhiều dáng vẻ, ở các dãy phố làng này, thì còn khiêm tốn lắm. Đi chút nữa, theo con đường tráng nhựa, qua Cống Bạch, tới chân Núi Tự, là tới mộ Trương Đài, vào những tiết Xuân:

“ Trong làng trống mõ sầm sồ

Trẻ già , trai gái đắp mồ Trương công”*

Phía trước mộ Trương công, là khu vực chùa Lâm Sơn Tự, ngôi chùa cổ đã chỉ còn dấu vết, nay đang được khôi phục lại, nhưng lúc nào cũng đông du khách, phật tử lại qua. Những trận thi đấu giữa các đội bóng trẻ, các buổi biểu diễn văn nghệ của đội văn nghệ phụ nữ, vào dịp lễ, Tết, các hoạt động thể thao vào sáng sớm và buổi tối thường ngày của CLB dưỡng sinh… làm tăng thêm khí sắc vui tươi, thân ái. Với truyền thống hiếu học từ ngàn xưa, các dòng họ trong làng đều tạo quỹ khuyến học, động viên con em vượt khó, học giỏi. Mỗi năm làng có hàng chục thanh niên vào đại học, và 100% học sinh tốt nghiệp THCS đều trúng tuyển vào THPT. Chị hỏi chuyện làng à? Cả làng  giờ nhà ai cũng có ti vi, giếng khoan, nhà vệ sinh tự hoại, đa phần có mạng internet, hệ thống tắm nóng lạnh, còn bếp ga, chỉ trừ bà cố Chiến không thích nên không dùng thôi.

Nho, vợ Hạnh, một gái xinh thiên hạ về làm dâu làng Hiển Vinh, đon đả mời tôi vào uống bát nước chè xanh. Nho cười, cặp má lúm đồng tiền như làm quá khứ trôi chậm lại. Cái búi tóc trên đỉnh đầu chị đưa tôi liên tưởng tới hình ảnh mẹ ngày nào gội đầu lá bưởi, ngồi hong bậc cửa và nhớ câu ca xưa:

“Giếng Hiển Vinh vừa trong, vừa mát

Đàng (đường) Hiển Vinh đất cát dễ đi

Trai Hiển Vinh như hoa thiên lý

Gái thiên hạ cố ý muốn theo’’.*

Ghi chú : (*) Ca dao trong vùng phía Đông Bắc huyện Hậu Lộc

Ký của Vân Điệp