Đề cương về Văn hóa Việt Nam ra đời trong bối cảnh đất nước chưa giành được độc lập, chính vì vậy, một trong những mục tiêu căn bản của việc ban hành Đề cương là dùng văn hóa để trở thành sức mạnh cho dân tộc.
Trên thực tế, văn hóa tạo nên sức mạnh thực sự cho dân tộc ta khi chúng ta sử dụng văn hóa để tạo nên sự thống nhất trong nhận thức về lòng yêu nước. Đất nước ta trải qua nhiều cuộc chiến tranh. Chúng ta đều chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Vũ khí lớn nhất của chúng ta không phải là khí tài quân sự hiện đại mà chính là lòng yêu nước.
“Văn hóa là nền tảng tinh thần, vừa là mục tiêu vừa là động lực, là hệ điều tiết của sự phát triển xã hội là những quan điểm cơ bản cho sự phát triển văn hóa ngày nay đã bắt nguồn từ những tư tưởng đầu tiên của Đảng về phát triển nền văn hóa Việt Nam dân tộc, khoa học, đại chúng này”, PGS.TS. Bùi Hoài Sơn nêu.
Đặt bản Đề cương trong bối cảnh lịch sử để thế hệ sau hiểu hết được tầm quan trọng và ý nghĩa của nó. Trước khi đất nước tiến hành khởi nghĩa, giành độc lập cho dân tộc, Đề cương về Văn hóa Việt Nam ra đời, trở thành một bản cương lĩnh về văn hóa, bổ sung cho cương lĩnh chính trị của Đảng.
“Lần đầu tiên, Đảng ta công bố quan niệm của mình về văn hóa theo quan điểm Mác xít, văn hóa được xác định là một trong ba mặt trận (cùng với mặt trận chính trị và kinh tế) trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, tạo nên thay đổi mang tính cách mạng trong nhận thức về văn hóa trong công cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng đất nước. Ý nghĩa này đã đi cùng với bản Đề cương theo suốt chiều dài lịch sử đất nước đến tận hôm nay”, ông Bùi Hoài Sơn nói.
Ông cho rằng nhìn lại chặng đường lịch sử 80 năm ra đời Đề cương về Văn hóa Việt Nam, chúng ta nhận thấy rằng, những tư tưởng sâu sắc, mang tính dẫn đường về xây dựng một nền văn hóa cách mạng với những nguyên tắc như dân tộc hóa, đại chúng hóa, khoa học hóa đã thực sự “soi đường cho quốc dân đi”, tạo ra sức mạnh tổng hợp cho quốc gia, để dẫn dắt đất nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
“Rõ ràng, trong mỗi một thời kỳ lịch sử của cách mạng Việt Nam, ba nguyên tắc quan trọng này đã có những nội hàm cụ thể để thể hiện được tính thời đại, định hướng cho sự phát triển văn hóa, con người đáp ứng yêu cầu của bối cảnh xã hội lúc đó. Nếu như văn hóa kháng chiến là sự kết tinh của tinh thần yêu nước nồng nàn, quyết tâm giải phóng dân tộc, diệt giặc ngoại xâm, diệt giặc đói, giặc dốt, trong thời bình, hội nhập quốc tế, đó lại là khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, văn hóa làm nên sức mạnh mềm, bản lĩnh và sự tự tin Việt Nam”, PGS.TS. Bùi Hoài Sơn nêu.
PGS.TS. Bùi Hoài Sơn, Ủy viên Thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội.
PGS.TS. Bùi Hoài Sơn khẳng định quan điểm “văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội” trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín (Ban chấp hành trung ương Khóa XI) một lần nữa khẳng định tinh thần của bản Đề cương “văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa)”, để sức sống mới của văn hóa tạo nên mục tiêu và động lực cho sự phát triển bền vững đất nước.
Để Đề cương về Văn hóa Việt Nam 1943 có sức sống mới trong bối cảnh ngày nay, bên cạnh việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng, ý nghĩa của Đề cương nói riêng, sự nghiệp phát triển văn hóa nói chung, nhất thiết chúng ta cần cập nhập những nội dung mới, phù hợp với bối cảnh xã hội đương đại.
PGS.TS. Bùi Hoài Sơn nêu từ sau năm 1943, Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết, kết luận nhằm phát triển văn hóa, đáng lưu ý nhất là Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm (Ban chấp hành Trung ương Khóa VIII), Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín (Ban chấp hành Trung ương Khóa XI), Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị (Khóa X) về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới. Các văn kiện này đã cụ thể hóa ba nguyên tắc phát triển văn hóa Việt Nam của Đề cương về Văn hóa Việt Nam.
“Qua các lần bổ sung ấy, những nội dung mới như nguyên tắc dân tộc hóa đã được bổ sung những giá trị của thế giới để trở thành nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đối với nguyên tắc khoa học hóa, chúng ta cần hướng các hoạt động văn hóa, giáo dục, khoa học vào việc xây dựng con người có thế giới quan khoa học, hướng tới chân - thiện - mỹ, nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri thức cho con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, của kinh tế tri thức và xã hội học tập trở thành nhiệm vụ xuyên suốt qua các Nghị quyết của Đảng về văn hóa”, ông nêu.
Quan điểm xây dựng và phát triển vǎn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng là sự bổ sung cho nguyên tắc đại chúng hóa trong phát triển văn hóa của Đảng, trong đó nhấn mạnh: “Mọi người Việt Nam phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, vǎn minh đều tham gia sự nghiệp xây dựng và phát triển nền vǎn hóa nước nhà. Công nhân, nông dân, trí thức là nền tảng khối đại đoàn kết toàn dân, cũng là nền tảng của sự nghiệp xây dựng và phát triển vǎn hóa dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước. Đội ngũ trí thức gắn bó với nhân dân giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển vǎn hóa”.
PGS.TS. Bùi Hoài Sơn cho rằng vì văn hóa liên quan đến toàn bộ xã hội, nên những nguyên tắc dân tộc hóa, khoa học hóa, đại chúng hóa cần phải được thẩm thấu vào trong toàn bộ hệ thống luật pháp, trong các chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả đất nước và từng địa phương. Điều đó giúp lan tỏa sức sống lâu bền của Đề cương văn hóa Việt Nam 1943 với sự phát triển đất nước trong quá khứ, hiện tại và cả tương lai.
Nguyên Khánh