Đi theo ánh lửa từ trái tim

Tạp Chí Nhân Đạo
(NĐ&ĐS) - Có tình nguyện đi về những nơi nghèo khó, gặp những mảnh đời bất hạnh mới biết rằng trong thế giới này còn nhiều người rất khổ. Đi đến với họ để có những lúc trái tim mình rung lên, có khi nước mắt trực trào ra khi chứng kiến những cảnh đời quá đỗi khó khăn.

Tuổi trẻ lắm ước mơ và nhiều khát vọng.

Năm 1998, tốt nghiệp Đại học sư phạm ra trường, tôi xung phong về vùng sâu, vùng xa. Trong lá đơn tình nguyện, tôi còn nhớ mình đã viết “đi bất cứ nơi đâu khi Tổ quốc cần, dù biên giới hay hải đảo xa xôi tôi cũng sẵn sàng để lên đường, mang tuổi thanh xuân, sức trẻ và tri thức dựng xây nước nhà”.  

Ai cũng bảo tôi sao cứ ưa làm chuyện khác người? Chính tôi cũng không biết nữa.... Bây giờ nhớ lại thấy mình thật “sến” nhưng ngày đó đâu chỉ riêng tôi mà ai cũng hừng hực khí thế, chẳng nề hà gian khổ. Tôi lúc ấy chỉ với suy nghĩ thật giản đơn, nơi đó đang rất cần mình, cộng thêm chút lý tưởng hóa của tuổi trẻ khát khao được cống hiến như có thể lấp bể, dời non. Vậy là tôi lên đường.

Nhóm chúng tôi được phân về xã Mà Cooih, huyện Hiên, tỉnh Quảng Nam.

Ngày đó phương tiện đi lại còn khó khăn, từ Thành phố Hồ Chí Minh đến huyện Hiên, tôi không nhớ mình phải di chuyển qua bao nhiêu chiếc xe. Chỉ nhớ rằng, những chiếc xe chạy dầu phì phò ì ạch kéo cả người và hàng hóa, phải đến bốn ngày vạ vật chúng tôi mới đến được trung tâm huyện Hiên, ai nấy người lấm lem bùn đất, vất vưởng như những kẻ ăn mày. Mấy chiếc va ly quần áo, mấy thùng sách vở quăng quật khắp nơi nhàu nhĩ. Nhưng đó vẫn chưa phải là nơi cuối cùng của đích đến. Từ trung tâm huyện Hiên vào xã Mà Cooih còn hơn 50 km đường rừng ngập tràn đất đá cùng bụi phủ mờ đang làm dang dở. Lúc đó Tổng công ty xây dựng 4 đang thi công con đường Hồ Chí Minh.

Chi_n d_ch t_nh nguy_n xGy d_ng =²_ng tr²_ng s)n =o_n qua huy_n HiOn
Nhóm tình nguyện của tác giả tham gia năm 1998 tại huyện Hiên, tỉnh Quảng Nam.

Đoạn đường 50 km đang dang dở làm với những vực sâu quanh co khúc khuỷu, đầy những cua gấp khúc chẳng mấy chốc mà hết. Buôn làng Abau hiện ra với màu nắng nung đỏ hầm hập, vài ba tán cây còi cọc còn sót lại sau cùng của một nơi từng gọi là rừng. Những ánh mắt lam lũ, sợ sệt, dúm dó lại một góc khi nhìn thấy người lạ của những đứa trẻ nơi đây. Những cậu bé khoảng  6- 7 tuổi, trần truồng, bụng như cái trống chầu đang đứng thập thò sau cánh cửa, tay dính đầy đất cát, cáu ghét đang cho tay vào bát bốc những hạt cơm khô còn sót lại đưa vào miệng nhai một cách ngon lành. Tôi đưa ra một bịch bánh, đôi mắt nâu tròn thăm thẳm ngước nhìn chúng tôi như không tin những chiếc bánh ấy sẽ được cho mình. Rồi vội vàng như sợ bị lấy lại, chúng ôm chầm lấy túi bánh rồi lẩn vội vào nhà, luống cuống xé vỏ bọc bên ngoài rồi nhai ngấu nghiến.

Giao thông đi lại cách trở, mỗi lần muốn mua gì là chúng tôi phải gửi nhờ các anh bên Xây dựng 4 mua giúp, cần kíp lắm thì xin đi nhờ xe tải chở đất, đá ra Hiên mua đồ. Có khi trúng ngày các anh làm đường nghỉ, thì cả nhóm kéo nhau lội bộ ra Hiên rồi thì vẫy nhờ bất cứ thứ phương tiện nào chạy trên đường để xin chở nhờ từng đoạn một. Rừng âm u, đường vắng tanh vậy mà chúng tôi nào thấy sợ, kể cả những đêm không trăng, chẳng nhờ xe được đoạn đường nào cũng lầm lũi cắm cúi đi về và cùng hát vang suốt dọc đường đi… cho bớt run.

Sự nghiệp dạy học của tôi được bắt đầu như thế.

Dù đã có kinh nghiệm trong những lần tham gia tình nguyện Mùa hè xanh của trường trước đó nhưng lần này vào việc mới thiệt là khó. Lớp học vắng hoe, chỉ có hai đứa con nhà trưởng buôn và ba đứa con nhà chủ tịch xã mà thôi. Lời ngon tiếng ngọt đã đưa hết cho người lớn lẫn lũ trẻ rồi nhưng hôm nào cũng nghe câu trả lời của người lớn “đói bụng thì chết, đói chữ vẫn sống được mà”.

Bắt đầu từ những việc nhỏ, có thể nhìn thấy, đo đếm được như cắt tóc, móng tay, móng chân cho lũ trẻ, đến việc tuyên truyền ăn chín, uống sôi đến giữ gìn vệ sinh chung trong buôn không để sinh sôi muỗi mòng sốt rét, chân không ngại theo lũ trẻ lên rừng nhặt ươi, đốn củi. Cũng tập uống rượu cần khi buôn mừng nhà mới, cũng đi tuốt lúa vào mùa gặt. Từng chút, từng chút một, bộ mặt buôn Abau ngày một đổi thay, đến lúc đó thì không cần chúng tôi vận động, mà các mẹ tự mình dắt tay đưa trẻ đến trường. Lớp học cho lũ trẻ con là chuyện đương nhiên, buôn trưởng rụt rè đề nghị dạy cả cho các mẹ, các chị chưa biết chữ nữa, sau giờ cơm tối cả buôn rộn ràng ê a tiếng đọc vang khắp nhà Gươl.

Chuyện đã xảy ra, bây giờ kể lại nghe thật dễ, nhưng ngày đó quả thật khó khăn, từ việc làm tư tưởng để gia đình chấp nhận cũng là một cửa ải chẳng dễ vượt qua. Ngôn ngữ bất đồng, người dân không hợp tác cùng phong tục tập quán khác nhau là rào cản mà không phải ai cũng có thể vượt qua để hoàn thành tốt công việc của mình. Chính những khó khăn của đợt đi tình nguyện ở huyện Hiên này mà chúng tôi có thêm nhiều kinh nghiệm cho những lần tình nguyện sau với suy nghĩ: Cùng ăn, cùng ở, cùng làm, làm chìa khóa để mở những cánh cửa tình nguyện.

 Hôm chia tay bà con xã Mà Cooih để về Đà Nẵng tiếp tục theo đuổi sự nghiệp học hành của mình, những đứa trẻ níu tay không rời. Buôn Abau nhà có gà làm gà, nhà có lợn thịt lợn, ai cũng buộc chúng tôi phải đến nhà để “cô giáo nhớ cái hơi buôn Abau mà quay về”.

Còn già làng, trưởng buôn Abau cười nhe hàm răng chiếc còn, chiếc mất nhắc đi, nhắc lại: “Cái bụng lũ mày tốt nên buôn Abau từ trẻ đến già ai cũng biết mặt con chữ, biết giữ gìn về sinh chung, lũ trẻ cũng sạch sẽ, tốt hơn rồi”.

Những ánh mắt trẻ thơ như chiếc kim đâm vào tim tôi, đau nhói. Những ánh mắt ấy đã níu chân tôi, để rồi khi có dịp, tôi lại rong ruổi trên chiếc xe máy từ Đà Nẵng chạy lên huyện Hiên, biết chẳng thể làm gì khi chỉ có một mình, nhưng tôi vẫn cứ quay trở lại để gửi cho các em những cái bánh, cây kẹo, những quyển sách, những bộ quần áo còn lành lặn vừa mới quyên góp về. Nhìn những ánh mắt háo hức khi được nhận quà lại càng làm tôi thêm ấm lòng.

Các hoạt động tình nguyện dẫu biết chỉ là hạt cát trong sa mạc nhưng nếu không có cát thì sao được gọi là sa mạc, lứa học sinh của những ngày tình nguyện ngày xưa có em tiếp tục đuổi theo con đường đại học, có em ở nhà làm rẫy làm nương nhưng cái được lớn nhất mà chúng tôi ngày ấy mang đến đó là ý thức, là gieo vào đầu các em những ước mơ với những điều tốt đẹp đang còn đợi chờ nếu chúng ta thật sự cố gắng hết sức mình.

Thế đấy, có tình nguyện đi về những nơi nghèo khó, gặp những mảnh đời bất hạnh mới biết rằng trong thế giới này còn nhiều người rất khổ. Đi đến với họ để  có những lúc trái tim mình rung lên, có khi nước mắt trực trào ra khi chứng kiến những cảnh đời quá đỗi khó khăn.

Trong những chuyến đi tình nguyện của mình, tôi đã gặp biết bao ánh mắt. Ánh mắt biết nói của người mẹ già mừng con mình đủ tiền theo đuổi con đường đến trường. Ánh mắt ngoan hiền ngơ ngác sau bao ngày cụp xuống được sáng bừng lên khi nỗi oan của mình được giải. Ánh mắt của những người trẻ đi mở đường Hồ Chí Minh hôm nào, những khát vọng ngời lên trong mắt họ đã làm tôi thấy yêu đời hơn, tin hơn vào cuộc sống rạng ngời ngày mai. Những ánh mắt sẻ chia với đồng loại trong các hoạt động tình nguyện hiến máu nhân đạo mà tôi đã tham gia, như san sẻ tình yêu thương của mình đến những số phận kém may mắn khác.

Những hoạt động tình nguyện của mình, tôi không nghĩ mình là người cho mà nghĩ rằng, mình chính là người nhận được rất nhiều.

Tôi đã lớn lên từng ngày từ những hoạt động tình nguyện mà mọi người đã gửi trao nhau.

Đây là bài dự thi cuộc thi viết "Tôi tình nguyện" do Báo điện tử Nhân đạo và Đời sống phối hợp cùng Hội Liên hiệp Thanh niên C.P. Việt Nam tổ chức nhân kỷ niệm 33 năm Ngày Tình nguyện viên Quốc tế, nhằm tôn vinh và ghi lại những khoảnh khắc ý nghĩa của những cá nhân – đơn vị đang ngày đêm hết mình tham gia vào các hoạt động vì cộng đồng. 

Link: http://baonhandao.vn/nhan-ai/phat-dong-cuoc-thi-viet-toi-tinh-nguyen-15664

FanPage: https://www.facebook.com/chiasevaphattrien.vn/

Võ Thị Lệ Thủy