Những dấu ấn nửa nhiệm kỳ...
Ngay từ đầu nhiệm kỳ 2020- 2025, ông Đỗ Trọng Hưng, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa đã nhấn mạnh: phải tiếp tục củng cố, gìn giữ và phát huy tinh thần đoàn kết, thống nhất, quyết tâm, quyết liệt trong chỉ đạo điều hành, nâng cao tinh thần trách nhiệm, chủ động, sáng tạo; khai thác và phát huy hiệu quả tiềm năng, lợi thế, cũng như chủ động ứng phó khó khăn, thách thức, huy động tối đa nguồn lực, sức mạnh cả hệ thống chính trị và toàn dân để phát triển kinh tế xã hội nhanh và bền vững. Cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh được tập trung chỉ đạo quyết liệt, tạo động lực quan trọng thúc đẩy kinh tế - xã hội của tỉnh phát triển.
Do đó, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) bình quân hàng năm ước đạt 9,69%, đứng thứ 5 cả nước. Quy mô GRDP năm 2023 ước đạt 279 nghìn tỷ đồng, gấp 1,5 lần năm 2020, đứng thứ 8 cả nước. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng. Nhiều chỉ tiêu thuộc lĩnh vực nông nghiệp, sản xuất công nghiệp, dịch vụ, thu ngân sách nhà nước tăng cao hơn so với mục tiêu Nghị quyết.
Quy mô GRDP năm 2023 ước đạt 279.074 tỷ đồng, gấp 1,5 lần năm 2020, đứng thứ 8 cả nước và cao nhất các tỉnh khu vực Bắc Trung Bộ và các tỉnh duyên hải miền Trung. GRDP bình quân đầu người năm 2023 ước đạt 3.144 USD, gấp 1,42 lần năm 2020. Cơ cấu các ngành kinh tế trong GRDP chuyển dịch theo hướng tích cực; tỷ trọng ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm từ 17,3% năm 2020 xuống còn 13,8% năm 2023; ngành công nghiệp, xây dựng tăng từ 41,8% lên 48,4%; ngành dịch vụ chiếm 31,8% và thuế sản phẩm chiếm 6,0%.
Từ năm 2020 đến nay, tỉnh cũng đã khởi công đầu tư một số dự án lớn, như: dự án nhà máy Điện mặt trời Thanh Hóa 1, tổng vốn đầu tư hơn 2.800 tỷ đồng; dự án Nhà máy luyện cán thép Nghi Sơn 2, tổng mức đầu tư gần 4.800 tỷ đồng. Một số dự án lớn hoàn thành, đi vào hoạt động và đóng góp quan trọng cho tăng trưởng kinh tế, thu ngân sách nhà nước của tỉnh như: Nhà máy Nhiệt điện Nghi Sơn 2, tổng mức đầu tư gần 61.000 tỷ đồng...
Về sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản có tốc độ tăng trưởng cao và khá toàn diện, giữ vai trò nền tảng cho sự ổn định kinh tế xã hội. Tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm đạt 3,85%, cao hơn mục tiêu 3% mà Nghị quyết đã đề ra; sản lượng lương thực bình quân hằng năm đạt 1,59 triệu tấn, đạt mục tiêu Nghị quyết. Hoạt động sản xuất nông nghiệp chuyển dần tư duy từ sản xuất nông nghiệp sang phát triển kinh tế nông nghiệp gắn với nhu cầu thị trường; lấy nông dân làm trung tâm, nông nghiệp là động lực, nông thôn là nền tảng.
Đến nay, toàn tỉnh đã tích tụ, tập trung được 34.413ha đất, tạo điều kiện để hình thành những vùng sản xuất hàng hóa quy mô lớn và thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn...
Đáng chú ý, mối liên kết giữa doanh nghiệp và hộ sản xuất theo chuỗi giá trị tiếp tục phát triển; việc ứng dụng, chuyển giao, đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp được quan tâm thực hiện; cơ giới hóa, thủy lợi hóa nông nghiệp được đẩy mạnh.
Bên cạnh đó, Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) đạt kết quả tích cực. Ước đến hết năm 2023, toàn tỉnh có 13 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn và hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới (đạt tỷ lệ 48,15%), có 363 xã đạt chuẩn nông thôn mới (đạt 78,1%), 80 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, 17 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu; có 407 sản phẩm OCOP cấp tỉnh, 1 sản phẩm OCOP 5 sao.
Mặc dù trong bối cảnh gặp nhiều khó khăn về thị trường tiêu thụ, giá nguyên, nhiên, vật liệu biến động liên tục, sản xuất công nghiệp của tỉnh vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng cao, bình quân giai đoạn 2021 - 2023 ước đạt 15,41%/năm, là động lực quan trọng cho tăng trưởng kinh tế của tỉnh. Có 20/25 sản phẩm công nghiệp chủ yếu có sản lượng sản phẩm năm 2023 tăng so với năm 2020; một số sản phẩm có sản lượng trong nhóm đầu của cả nước như: Lọc hóa dầu, xi măng, thép. Giai đoạn 2021 - 2023, đã hoàn thành, đưa vào hoạt động một số cơ sở công nghiệp mới, đóng góp quan trọng cho tăng trưởng kinh tế của tỉnh; đồng thời đã triển khai đầu tư một số dự án công nghiệp lớn.
Tăng trưởng ngành xây dựng bình quân hằng năm ước đạt 10,11%. Công tác quy hoạch được đặc biệt quan tâm. Thanh Hóa là tỉnh thứ tư trong cả nước được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Quy hoạch chung đô thị Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa đến năm 2040 cũng đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, mở ra tầm nhìn, không gian, động lực mới cho sự phát triển của tỉnh nói chung và thành phố Thanh Hóa nói riêng. Tỷ lệ đô thị hóa năm 2023 ước đạt 38%, tăng 3% so với đầu nhiệm kỳ.
Các ngành dịch vụ mặc dù bị ảnh hưởng nặng nề của dịch COVID-19, song đã phục hồi nhanh, trong đó một số ngành phát triển mạnh. Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2021 - 2023 ước đạt 7,95%/năm. Doanh thu bán lẻ hàng hóa và một số ngành dịch vụ bình quân giai đoạn 2021 - 2023 tăng 13,5%/năm.
Hoạt động xuất khẩu hàng hóa tuy gặp khó khăn do sức tiêu thụ ở một số thị trường truyền thống giảm; song các doanh nghiệp đã khai thác tốt lợi thế của tỉnh và các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới để duy trì và đẩy mạnh xuất khẩu, nên tăng trưởng giá trị xuất khẩu vẫn ở mức khá, bình quân hàng năm giai đoạn 2021 - 2023 đạt 11,6%; giá trị xuất khẩu năm 2023 ước đạt 5,1 tỷ USD, gấp 1,39 lần năm 2020. Toàn tỉnh hiện có 189 doanh nghiệp tham gia xuất khẩu với 55 chủng loại hàng hóa, sang 53 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Hoạt động du lịch giảm mạnh trong năm 2021, song đã có sự phục hồi nhanh và tăng trưởng mạnh trở lại trong năm 2022 và 2023; nhiều chương trình kích cầu, các hoạt động quảng bá, xúc tiến du lịch được triển khai thực hiện; hạ tầng các khu, điểm du lịch được quan tâm đầu tư, nâng cấp, chất lượng dịch vụ được nâng lên, các sản phẩm du lịch ngày càng đa dạng. Tổng lượng khách du lịch giai đoạn 2021 - 2023 ước đạt 26,5 triệu lượt khách, tăng bình quân 17,8%/năm; tổng thu du lịch ước đạt 49.266 tỷ đồng, tăng bình quân 32,5%/năm.
Thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn tăng mạnh, tổng thu ngân sách nhà nước 3 năm, từ 2021 - 2023 ước đạt 132.418 tỷ đồng, vượt dự toán Trung ương giao hằng năm; trong đó năm 2022 đạt 51.173 tỷ đồng, cao nhất từ trước đến nay và đứng thứ 9 cả nước. Tốc độ tăng thu ngân sách nhà nước bình quân hằng năm ước đạt 11,3%, cao hơn mục tiêu Nghị quyết.
Tổng huy động vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 2021 - 2023 ước đạt trên 409.000 tỷ đồng, bằng 54,6% mục tiêu của cả giai đoạn, gấp 1,25 lần giai đoạn 2016 - 2018. Đáng chú ý là cơ cấu vốn đầu tư chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng vốn đầu tư Nhà nước, tăng tỷ trọng vốn đầu tư ngoài Nhà nước. Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, toàn tỉnh thu hút được 170 dự án đầu tư trực tiếp, trong đó có 22 dự án FDI, với tổng vốn đăng ký 33.676 tỷ đồng và 214 triệu USD. Lũy kế đến nay, trên địa bàn tỉnh có 143 dự án FDI còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký 14,7 tỷ USD, đứng đầu các tỉnh Bắc Trung Bộ và đứng thứ 8 cả nước.
Hoạt động đầu tư công được tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt. Từ năm 2020 đến nay, Thanh Hóa luôn nằm trong nhóm các tỉnh dẫn đầu cả nước về tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công. Việc bố trí vốn đầu tư được thực hiện tập trung, có trọng tâm, trọng điểm, đảm bảo sử dụng hiệu quả vốn đầu tư, sát thực tiễn. 9 tháng năm 2023, giá trị giải ngân vốn đầu tư công ước đạt trên 7.200 tỷ đồng.
Theo đó, giai đoạn 2020 – 2023, tỉnh đã khởi công xây dựng nhiều công trình hạ tầng trọng điểm, đặc biệt là các tuyến đường giao thông kết nối các trung tâm kinh tế động lực, các vùng miền, các trục giao thông huyết mạch của cả nước; qua đó tạo điều kiện để khai thác, phát huy tốt tiềm năng, thế mạnh của tỉnh, tăng cường kết nối, mở rộng không gian, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, cụ thể như: dự án đường bộ ven biển đoạn Nghi Sơn – Hoằng Hóa, tổng vốn đầu tư 2.242 tỷ đồng; đường kết nối Quốc lộ 1A, Quốc lộ 45 với đường cao tốc Bắc – Nam với tổng mức đầu tư hơn 1.400 tỷ đồng...
Các chỉ số về cải cách hành chính của tỉnh có bước cải thiện rõ rệt; chỉ số PAPI năm 2022 xếp thứ 3 cả nước, chỉ số PAR INDEX xếp thứ 10 cả nước, chỉ số SIPAS xếp thứ 5 cả nước, tăng 19 bậc so với năm 2021. Công tác phát triển doanh nghiệp được quan tâm. Giai đoạn 2021 - 2023, trên địa bàn tỉnh có khoảng 10.700 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, đạt 71,3% mục tiêu Nghị quyết, đứng thứ 7 cả nước, với tổng vốn điều lệ đăng ký đạt 112.000 tỷ đồng. Ước hết năm 2023, trên địa bàn tỉnh có khoảng 21.000 doanh nghiệp đang hoạt động, đạt 5,6 doanh nghiệp/1.000 dân.
Cùng với những dấu ấn nổi bật trong bức tranh tăng trưởng kinh tế, các hoạt động văn hóa - xã hội tiếp tục có nhiều chuyển biến tích cực. Tỉnh đã chủ động dự báo, phân tích, đánh giá sát, đúng tình hình, thực hiện quyết liệt các phương án, kịch bản, biện pháp phòng, chống dịch bệnh COVID-19 phù hợp với từng thời điểm, từng địa bàn, lĩnh vực, vì vậy tỷ lệ số ca mắc và tử vong do COVID-19 thuộc nhóm thấp nhất cả nước.
Hoạt động văn hóa, thông tin được đẩy mạnh; giáo dục mũi nhọn, thể thao thành tích cao luôn nằm trong nhóm dẫn đầu cả nước. Tại 2 kỳ Seagame 31 và 32, các vận động viên Thanh Hóa dành được 34 Huy chương, trong đó có 17 Huy chương vàng; đoàn thể thao Thanh Hóa xếp thứ 4 tại Đại hội thể dục thể thao toàn quốc lần thứ 9; đội bóng đá Thanh Hóa giành Cúp Quốc gia và Siêu cúp Quốc gia năm 2023, đội U19 giành chức vô địch giải U19 Quốc gia năm 2023. Học sinh Thanh Hóa đạt 4 huy chương tại các kỳ thi Olympic quốc tế; năm 2023, lần đầu tiên Thanh Hóa có học sinh đoạt ngôi quán quân cuộc thi Đường lên đỉnh Olympia, sân chơi trí tuệ dành cho học sinh Trung học phổ thông cả nước.
Công tác chăm sóc sức khỏe cho Nhân dân được chú trọng tăng cường, an sinh xã hội được đảm bảo, đời sống của Nhân dân không ngừng được nâng lên. Đặc biệt, tỉnh đã triển khai thực hiện chủ trương hỗ trợ đồng bào sinh sống ở vùng có nguy cơ cao về sạt lở đất và lũ ống, lũ quét đến nơi an toàn; cấp đất, hỗ trợ làm nhà và tạo sinh kế cho đồng bào sinh sống trên sông lên bờ để ổn định cuộc sống; phối hợp với Bộ Công an xây dựng 600 căn nhà cho hộ nghèo trên địa bàn huyện Mường Lát. Công tác giảm nghèo đạt kết quả quan trọng, tỷ lệ hộ nghèo ước đến hết năm 2023 chỉ còn 3,97%. Chính trị ổn định, quốc phòng - an ninh, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững. Hoạt động đối ngoại, hợp tác quốc tế và liên kết, hợp tác với các tỉnh, thành phố bạn được tăng cường.
Trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị được đẩy mạnh toàn diện, liên tục, đồng bộ, quyết liệt, hiệu lực, hiệu quả. Đã triển khai thực hiện kịp thời, nghiêm túc, sáng tạo các Nghị quyết của Trung ương, đặc biệt là Kết luận số 21- của Ban Chấp hành Trung ương "Về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá"".
Hiện thực hóa mục tiêu đến năm 2025
Việc thực hiện 27 chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 19 đề ra đến hết năm 2023, tỉnh có 22 mục tiêu ước đạt và vượt mục tiêu; có 5 chỉ tiêu dự báo khó hoàn thành nhiệm vụ. Trong giai đoạn 2024-2025 tiếp tục thực hiện các giải pháp phát triển kinh tế nhanh và bền vững, sớm đưa Thanh Hóa trở thành một cực tăng trưởng mới ở phía Bắc; tập trung phát triển 4 trung tâm kinh tế động lực, 3 trụ cột tăng trưởng, 8 chương trình trọng tâm, 3 khâu đột phá. Thanh Hóa xác định: những kết quả đạt được mới chỉ là bước đầu, tỉnh vẫn phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức, đó là: Các nhân tố tác động tiêu cực tới tăng trưởng kinh tế của tỉnh vẫn rất lớn với nhiều yếu tố khó dự báo hơn, thách thức lớn hơn và khó lường hơn, nhất là biến động về giá nguyên, nhiên vật liệu đầu vào, áp lực lạm phát, chi phí sản xuất tăng cao, rủi ro về chuỗi cung ứng, nhu cầu từ các thị trường xuất khẩu lớn, truyền thống bị thu hẹp, suy yếu, sự điều chỉnh chính sách của các nền kinh tế lớn, đối tác thương mại lớn dẫn đến giảm mạnh các đơn hàng xuất khẩu của doanh nghiệp.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, nhưng chất lượng thấp, chưa thực sự bền vững và chưa tương xứng với tiềm năng của tỉnh. Chất lượng, sức cạnh tranh của các sản phẩm, chất lượng nguồn nhân lực còn thấp, năng lực khoa học - công nghệ còn hạn chế. Hiệu quả hoạt động và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp chưa cao, thiếu doanh nghiệp có vai trò đầu tàu, dẫn dắt. Kết cấu hạ tầng vẫn còn thiếu, chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát triển nhanh và bền vững của tỉnh, nhất là hạ tầng các khu công nghiệp, cụm công nghiệp và khu vực miền núi. Thiên tai, dịch bệnh diễn biến phức tạp, khó lường... Đây là những yếu tố tác động bất lợi đến sự phát triển của tỉnh.
Để sớm hiện thực hóa mục tiêu đến năm 2025 đưa tỉnh Thanh Hóa trở thành cực tăng trưởng mới ở phía Bắc của Tổ quốc, trong thời gian tới, Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa sẽ tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tiếp tục quán triệt, rà soát, đánh giá những thuận lợi, khó khăn và nguyên nhân, trên cơ sở đó bổ sung, điều chỉnh giải pháp, biện pháp đảm bảo cụ thể, thiết thực, hiệu quả triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả các chương trình, đề án, kế hoạch thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết số 58 và Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX, Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm giai đoạn 2021 - 2025, các nghị quyết, kết luận, cơ chế, chính sách mới ban hành. Triển khai thực hiện hiệu quả Quy hoạch tỉnh Thanh Hóa thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045; các cơ chế, chính sách đặc thù theo Nghị quyết số 37 của Quốc hội, tạo động lực mới cho sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Phấn đấu đến năm 2025 Thanh Hóa trở thành một cực tăng trưởng mới trong tứ giác kinh tế phía Bắc Tổ quốc, đến năm 2030 trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại, người dân có mức sống cao hơn bình quân cả nước./.
Thanh Huyền