Liên quan đến vụ việc bà Nguyễn Phương Hằng, mới đây nhất, ngày 24-10, ông Nguyễn Quang Tuấn (ngụ Quận 7, TP.HCM, con trai bà Hằng) đã gửi đơn đến Cơ quan CSĐT Công an TP.HCM và VKSND TP.HCM xin đặt tiền để bảo đảm cho mẹ được tại ngoại chữa bệnh.
Theo đó, ông Tuấn xin được đặt tiền để bảo đảm là 10 tỉ đồng để thay thế biện pháp ngăn chặn tạm giam cho bị can Hằng cho đến khi kết thúc vụ án.
Liên quan đến hành vi pháp lý trên, nhiều bạn đọc thắc mắc khi thực hiện đặt tiền bảo đảm để tại ngoại thì mức tiền đặt là bao nhiêu và khi nào số tiền đó được trả lại, khi nào bị tịch thu?
Trao đổi với Pháp Luật TP.HCM, luật sư Lê Dũng, Đoàn Luật sư TP.HCM cho biết biện pháp đặt tiền để bảo đảm được quy định tại Điều 122 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
Theo đó, đặt tiền để bảo đảm là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam. Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, nhân thân và tình trạng tài sản của bị can, bị cáo, CQĐT, VKS, tòa án có thể quyết định cho họ hoặc người thân thích của họ đặt tiền để bảo đảm.
Bị can, bị cáo được đặt tiền phải làm giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ như:
- Có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan.
- Không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội.
- Không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
Loại tiền đặt bảo đảm và mức tiền được quy định tại Thông tư liên tịch số 06/2018. Theo đó, tiền đặt để bảo đảm là Việt Nam đồng, thuộc sở hữu hợp pháp của bị can, bị cáo, người thân thích của bị can, bị cáo.
CQĐT, VKS, tòa án quyết định mức tiền cụ thể mà bị can, bị cáo phải đặt để bảo đảm, nhưng không dưới 30 triệu đồng đối với tội phạm ít nghiêm trọng; 100 triệu đồng đối với tội phạm nghiêm trọng; 200 triệu đồng đối với tội phạm rất nghiêm trọng; 300 triệu đồng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Mức tiền đặt bảo đảm có thể thấp hơn nhưng không dưới ½ mức quy định trên nếu thuộc các trường hợp như: Bị can, bị cáo là thương binh, bệnh binh, là người được tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng lao động, Nhà giáo nhân dân, Thầy thuốc nhân dân… hoặc là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.
Về xử lý tiền đặt bảo đảm, số tiền đặt bảo đảm sẽ bị tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước trong hai trường hợp: Trường hợp thứ nhất là bị can, bị cáo bị bắt tạm giam về tội đã phạm trước khi áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm hoặc tiếp tục phạm tội.
Trường hợp thứ hai là bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan tại thời điểm đặt tiền bảo đảm.
Số tiền đặt bảo đảm được hoàn trả trong các trường hợp sau:
- Khi có quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án; đình chỉ điều tra đối với bị can, đình chỉ vụ án đối với bị can.
- Bị can, bị cáo bị bắt tạm giam về tội đã phạm trước khi áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm hoặc tiếp tục phạm tội.
- Bị can, bị cáo chết.
- Bị can, bị cáo đã chấp hành đầy đủ các nghĩa vụ đã cam đoan.
- Bị cáo được tòa án tuyên không có tội, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, hình phạt không phải là hình phạt tù hoặc phạt tù nhưng cho hưởng án treo hoặc khi thời hạn phạt tù bằng hoặc ngắn hơn thời hạn đã tạm giam.
Như vậy, có thể thấy trong tố tụng hình sự biện pháp đặt tiền bảo đảm và bão lĩnh đều có điểm chung là các biện pháp thay thế tạm giam để bị can, bị cáo được tại ngoại.
Tuy nhiên, nếu như bảo lĩnh là biện pháp do cá nhân, cơ quan, tổ chức sử dụng uy tín, nhân thân của cá nhân, cơ quan, tổ chức đó để thực hiện việc bảo lĩnh cho bị can, bị cáo thì đặt tiền bảo đảm là biện pháp do chính bị can, bị cáo bỏ tiền ra để đặt hoặc người thân thích của bị can, bị cáo bỏ tiền ra đặt để được tại ngoại.
Theo báo Pháp luật TP.HCM